Kay, ania karon, ang adlaw moabut na, nga nagasunog daw hudno; ug ang tanang mga palabilabihon, ug ang tanang nanagbuhat sa kadautan mangahimong tuod sa balili; ug ang adlaw nga moabut magasunog kanila, nagaingon si Jehova sa mga panon, nga kini dili magbilin kanila bisan gamut, ni sanga. Apan kaninyo nga may kahadlok sa akong ngalan, ang adlaw sa pagkamatarung mosubang nga adunay kaluwasan sa iyang mga pako; ug kamo manggula, ug managlumpat sa kalipay maingon sa mga nating vaca sa toril. Ug pagatamakan ninyo ang mga dautan; kay sila mangahimong abo sa ilalum sa mga lapa-lapa sa inyong mga tiil, sa adlaw nga akong pagahimoon kini, nagaingon si Jehova sa mga panon. Hinumdumi ninyo ang Kasugoan ni Moises ang akong alagad, nga akong gisugo kaniya didto sa Horeb alang sa tibook nga Israel, bisan ang kabalaoran ug ang mga tulomanon. Ania karon, akong ipadala kaninyo si Elias ang manalagna, sa dili pa moabut ang daku ug makalilisang nga adlaw ni Jehova. | Vì nầy, ngày đến, cháy như lò lửa. Mọi kẻ kiêu ngạo, mọi kẻ làm sự gian ác sẽ như rơm cỏ; Đức Giê-hô-va vạn quân phán: Ngày ấy đến, thiêu đốt chúng nó, chẳng để lại cho chúng nó hoặc rễ hoặc nhành. Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bịnh; các ngươi sẽ đi ra và nhảy nhót như bò tơ của chuồng. Các ngươi sẽ giày đạp những kẻ ác, vì trong ngày ta làm, chúng nó sẽ như là tro dưới bàn chơn các ngươi, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. Các ngươi khá nhớ lại luật pháp của đầy tớ ta là Môi-se, mà ta đã truyền cho nó tại Hô-rép, tức là những lề luật và mạng lịnh cho cả Y-sơ-ra-ên. Nầy, ta sẽ sai đấng tiên tri Ê-li đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Giê-hô-va chưa đến. Người sẽ làm cho lòng cha trở lại cùng con cái, lòng con cái trở lại cùng cha, kẻo ta đến lấy sự rủa sả mà đánh đất nầy. |